Xu KhômLinxki - nhà giáo dục vĩ đại, viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Giáo dục Liên Xô. Người đã vận dụng lí luận, kinh nghiệm giáo dục xã hội chủ nghĩa vào hoàn cảnh cụ thể, đào tạo nhiều học trò, đóng góp nhiều lí luận, kinh nghiệm giáo dục thế hệ trẻ Xô Viết.
V.A.Xukhômlinxki là người giáo viên tiểu học trường làng trở thành viện sĩ thông tấn viện Hàn Lâm khoa học giáo dục.
Ông sinh năm 1918 tại làng Vaxiliepca, quận Onuphriepca thuộc nước cộng hoà Ucraina.
Năm 1935, đang học năm thứ hai Cao đẳng sư phạm, ông bị bệnh nặng phải nghỉ học. Lành bệnh thì bố bị ốm, cảnh nhà túng bấn buộc phải thôi học để kiếm sống.
Năm 1936, ông làm giáo viên trường làng ở quê ông. Ông vừa dạy học, vùa học hàm thụ Đại học sư phạm. Tốt nghiệp Đại học sư phạm khoa ngữ văn, ông được bổ làm giáo viên ngữ văn ở trường Trung học Unuphriepca.
Năm 1940, ông tòng quân và tham gia chiến tranh thế giới thứ hai ở Xmôlenxcô. Tháng 2/1942, ông bị thương nặng: mảnh đạn của pháo quân Đức trúng vào ngực và vai. Thật may, ông thoát chết nhưng hai mảnh đạn nhỏ nằm lại trong ngực gây nhức nhối không khi nào để ông im mà còn tai quái nhích lại gần tim. Năm 1944, đang làm trưởng phòng giáo dục huyện, ông tha thiết xin về trường dạy học để được gần gũi học sinh. Người ta cử ông làm hiệu trưởng trường Trung học Pavlưts ở ngay cạnh quê ông. Ông làm hiệu trưởng trường này suốt 26 năm và chính sự nghiệp giáo dục cũng như các quan điểm sư phạm của ông ra hoa kết trái tại trường trung học nông thôn này, và đã đưa ông lên địa vị Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học giáo dục, anh hùng lao động Liên Xô (trước đây).
Năm 1970, trong khi đang chuẩn bị khẩn trương năm học mới 1970 – 1971, hai mảnh đạn trong ngực ông trở trứng. Chính trong cuộc phẫu thuật để lấy hai mảnh đạn đã nằm sát trái tim mà ông đã qua đời trên bàn mổ, ngày 3/9/1970, lúc ông mới 52 tuổi.
Tư tưởng sư phạm của Xukhômlinxki bắt nguồn từ thực tiễn dạy học và lãnh đạo trường học. Làm hiệu trưởng nhưng để sát học sinh, để có điều kiện trực tiếp dạy dỗ học sinh, ông tập hợp 31 trẻ từ 6-7 tuổi (đều sinh năm 1944-1945 trong chiến tranh ác liệt) mở một lớp vỡ lòng mà ông lấy tên là “Trường học niềm vui” và do ông làm giáo viên, rồi dạy cho các em trong các lớp tiểu học, và tiếp tục dạy ngữ văn, theo dõi các em cho đến khi chúng tốt nghiệp trung học phổ thông. Chính qua hoạt động này cùng với các hoạt động lãnh đạo trường mà Xukhômlinxki trau dồi tình cảm và tư duy sư phạm cũng như tích luỹ kinh nghiệm thực tiễn để viết nên một tác phẩm lớn :”Trái tim tôi hiến dâng cho trẻ”. Tác phẩm này tổng kết tư tưởng sư phạm của ông đối với bậc tiểu học. Có thể nêu mấy điểm nổi bật sau của tư tưởng đó:
1. Giáo dục, dạy học trước hết là sự giao tiếp tâm hồn. Nếu không có sự giao tiếp tâm hồn thường xuyên giữa thày giáo và học sinh, nếu không có sự thâm nhập vào thế giới tư tưởng, tình cảm , rung động của nhau thì không thể có năng lực xúc cảm, yếu tố cốt tử của năng lực sư phạm, năng lực giáo dục. Muốn trở thành người thày giáo chân chính của trẻ thì phải biết hiến dâng trái tim cho trẻ. Dạy trẻ, phải hiểu trẻ, thương trẻ, tôn trọng trẻ, phải trở thành trẻ em ở một mức độ nào đó.
2. Người thầy giáo phụ trách cái mỏng manh nhất, nhạy cảm nhất trong tự nhiên: Bộ óc của trẻ. Khi nghĩ về bộ óc trẻ thơ, Xukhômlinxki nêu hình tượng một bông hồng mảnh mai trên đó có giọt sương long lanh với biết bao thận trọng và nhẹ nhàng để ngắt được bông hoa mà không làm rơi hạt sương.. Thái độ của thầy giáo cũng phải thận trọng như vậy đối với bộ óc trẻ thơ. Với một tiên đoán khoa học về bộ óc trẻ thơ, ông phân tích điều kiện tư duy của trẻ, nghiên cứu hoạt động của các nơron thần kinh của trẻ để chứng minh đầy sức thuyết phục vai trò của xúc cảm trong lĩnh hội và ghi nhớ.
3. Tuổi thơ, thế giới trẻ thơ là một thế giới đặc biệt. Trẻ sống trong thế giới của cái đẹp, của trò chơi, truyện cổ tích, âm nhạc, thơ ca, tranh vẽ, viễn tưởng và sáng tạo. Đó là môi trường nuôi dưỡng tâm hồn trẻ. Tổ chức trường lớp, nội dung giảng dạy, phương pháp giảng dạy đều phải tận dụng các yếu tố đó để làm cho trẻ sống trong mơ ước, sống trong hy vọng.
4. Giáo dục trẻ em phải hướng vào chủ đích thúc đẩy sự phát triển đầy đặn và hài hoà toàn bộ sức mạnh về thể chất và tâm hồn của trẻ. Đó là sự thống nhất hài hoà giữa trí tuệ và tình cảm, trái tim và khối óc, giữa xúc cảm và năng lực trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ, lao động, giao tiếp – tức là toàn bộ cuộc sống tinh thần, hiểu cả về mặt lý trí và xúc cảm, mặt thể chất và mặt trí tuệ. Do vậy, đức, trí, thể, mỹ, lao động, học và chơi hoà quện vào nhau trong một thể thống nhất chi phối hoạt động của người thầy giáo.
Những tư tưởng sư phạm đó tất nhiên cũng quán triệt vào các cấp học khác, vào toàn bộ hoạt động tập thể của trường trung học Pavlưts mà ông là linh hồn. Tiếp theo sau “Trái tim tôi hiến dâng cho trẻ” nói về tiểu học, ông có tác phẩm “Tuổi ra đời của người công dân” dành cho giáo dục thiếu niên (bậc trung học) và tác phẩm “Những lá thư gửi con trai” giành cho giáo dục thanh niên. Ba tác phẩm này về sau được in chung trong một quyển sách lấy tên chung là “Trái tim tôi hiến dâng cho trẻ”. Ông cũng có những tác phẩm chuyên đi về giáo dục lòng yêu nước, giáo dục lao động, giáo dục con người chân chính.
Ông thường nói “Trái tim tôi hiến dâng cho trẻ” là cuốn sách của trái tim mình; “Giáo dục con người chân chính như thế nào” là sự nghiệp của đời mình. Song có một tác phẩm có thể coi là chiếm vị trí trung tâm trong sự nghiệp sáng tác sư phạm của ông, đó là quyển ” Trường trung học Pavlưts”. Đây là quyển sách tổng kết kinh nghiệm 26 năm xây dựng trường trung học nông thôn. Không ở một quyển sách nào khác, nhà giáo dục Xô viết triển khai một cách toàn diện hơn, sâu rộng hơn những quan điểm sư phạm của mình về tất cả các mặt giáo dục, mô tả được một cách chi tiết, tỉ mỉ hơn những suy nghĩ sáng tạo, những thành công cùng thất bại của người hiệu trưởng cũng những giáo viên, học sinh trong quá trình giảng dạy, học tập , lao động…
Nhìn lại toàn bộ sự cống hiến của V.A.Xukhômlinxki, chúng ta thật không thể hình dung nổi vì sao một con người thương tật như vậy mà có một sức làm việc phi thường đến thế. Dạy học, lãnh đạo trường, đi thuyết trình về kinh nghiệm giáo dục ở nhiều nước, ông vẫn dành ra thời gian và sức lực để viết gần 20 tác phẩm lớn về giáo dục được dịch ra 15 thứ tiếng. Những tư tưởng giáo dục của ông sẽ vẫn mãi còn giá trị cho sự nghiệp giáo dục của con người hôm nay và mai sau.